Trái phiếu doanh nghiệp P3 - Cách tiếp cận khi phân tích.
Mình từng thấy nhiều tư vấn viên đặt nặng vấn đề lợi nhuận của tổ chức phát hành thay vì dòng tiền khi giới thiệu trái phiếu.
1- Đánh giá trái phiếu nên có một cách tiếp cận khác với cổ phiếu.
Khi đầu tư cổ phiếu nghĩa là bạn góp vốn làm ăn, trong khi mua trái phiếu là cho vay tiền. Sự khác nhau cơ bản này dẫn đến cần có những cách tiếp cận khác nhau khi phân tích để đầu tư trái phiếu và cổ phiếu. Khi đầu tư trái phiếu, chúng ta không chọn doanh nghiệp vì định giá, cũng không bỏ qua doanh nghiệp chỉ vì báo cáo thua lỗ.
Khi viết bài này, mình tìm kiếm nhiều nguồn trên mạng, nhưng hầu như các phương pháp nhìn chung vẫn còn khá mơ hồ và khó áp dụng vào thực tế. Mình sẽ điểm qua phương pháp khá lý thuyết này, trước khi đến với đề xuất của mình.
2- Cách tiếp cận lý thuyết và không thể áp dụng.
Mình thấy có 1 hướng tiếp cận được đa số các bạn tư vấn áp dụng, đó là tập trung vào 3 khía cạnh: tài sản đảm bảo(TSĐB) , xếp hạng tín nhiệm(XHTN), và bảo lãnh thanh toán(BLTT). Nhưng cả 3 tiêu chí này theo mình đều không nên là các yếu tố đầu vào chính cho quyết định mua trái phiếu. Bởi:
Một khi trái phiếu có TSĐB lãi suất sẽ giảm, chưa kể TSĐB rất khó để đánh giá, và nếu tập trung vào khả năng trả nợ của doanh nghiệp thì không cần TSĐB.
XHTN là hình thức mà doanh nghiệp chi trả cho tổ chức xếp hạng tín nhiệm để xếp hạng chính doanh nghiệp. Rõ ràng với cơ chế như vậy, kết quả XHTN sẽ thiếu sự minh bạch. Quan trọng hơn là việc doanh nghiệp tốn chi phí xếp hạng, thì doanh nghiệp cũng sẽ khấu trừ chi phí, khiến cho lãi suất trái phiếu sẽ thấp hơn.
Bão lãnh thanh toán: Việc có một tổ chức tài chính như ngân hàng nào đó tham gia bão lãnh thanh toán, nghĩa là trong trường hợp doanh nghiệp không trả nợ được thì ngân hàng sẽ đứng ra trả thay. Việc này dù nâng tính an toàn của trái phiếu lên rất nhiều, nhưng cũng triệt tiêu phần lớn lãi suất của trái phiếu, khiến cho lãi suất sẽ về mức gần như gửi tiết kiệm.
Rõ ràng, cách tiếp cận trên nghe có vẻ hợp lý, nhưng đã triệt tiêu phần lớn lợi suất. Thứ vốn dĩ là mục tiêu khi NĐT chuyển từ gửi tiết kiệm sang đầu tư trái phiếu.
Do đó mình đề suất một cách tiếp cận khác, mà khi áp dụng, nhà đầu tư sẽ muốn doanh nghiệp chuyển những chi phí như TSĐB, XHTN và BLTT thành lãi suất của trái phiếu.
3- Cách tiếp cận của mình.
Mình tin rằng việc đánh giá vị thế, tình hình tài chính và khả năng trả nợ của doanh nghiệp và thanh khoản của trái phiếu mới là những yếu tố chính cho việc ra quyết định mua/không mua một trái phiếu.
Các yếu tố trên được đánh giá thông qua 5 tiêu chí sau:
Trái phiếu của Tổ chức phát hành (TCPH) nào? Có uy tín không?
NĐT có nhận được đầy đủ thông tin về TCPH và mục đích sử dụng vốn, kế hoạch trả nợ?
Điều khoản mua lại của TCPH?
Tình hình tài chính của TCPH?
Nếu cần tiền đột xuất thì lấy tiền về như thế nào?
Vị thế của TCPH?
Nhìn chung đây là tiêu chí định tính, nhằm giúp hình dung được bạn cho ai vay tiền. Doanh nghiệp có vị thế đầu ngành, uy tín lớn là 1 điểm cộng. Bởi việc doanh nghiệp xây dựng danh tiếng tốn rất nhiều thời gian, tiền bạc và công sức, họ sẽ không muôn những khoản vay làm tổn thất đến danh tiếng vốn rất khó để xây dựng này.
Công bố thông tin.
Việc công bố đầy đủ thông tin thể hiện cho sự minh bạch. Mục đích sử dụng vốn để nhà đầu tư biết doanh nghiệp sẽ sử dụng tiền vay này như thế nào, các mục đích thường gặp là mở rộng sản xuất, đầu tư dự án mới hoặc tái cơ cấu nợ. Kế hoạch trả nợ là doanh nghiệp dự định dòng tiền từ đâu để trả lãi và gốc trái phiếu. Việc thiếu các thông tin trên sẽ là một dấu hiệu của rủi ro cần lưu ý.
Điều khoản mua lại.
Nhiều nhà đầu tư thường bỏ qua điều khoản này, nhưng nó sẽ có tác động đáng kể nếu không kiểm tra. Điều khoản thuận lợi cho nhà đầu tư sẽ là trái chủ có quyền(không phải nghĩa vụ) yêu cầu TCPH mua lại trái phiếu trước hạn trong một số trường hợp hoặc sau một mốc thời gian cụ thể nào đó. Ngược lại điều khoản mà TCPH có quyền mua lại trước hạn thì không có lợi cho nhà đầu tư, do trong điều kiện lãi suất trên thị trường giảm, doanh nghiệp có thể tiến hành mua lại trái phiếu trước hạn và phát hành trái phiếu có lãi suất thấp hơn (Rủi ro tái tài trợ Refinancing Risk)
Tình hình tài chính.
Đây là tiêu chí quan trọng nhất, đánh giá việc liệu doanh nghiệp có thể trả nợ hay không. Nhà đầu tư nên tập trung vào:
Tỷ lệ Nợ vay/Vốn chủ sở hữu (Debt-to-Equity):
Tỷ lệ này đo lường mức độ doanh nghiệp dựa vào nợ vay để tài trợ cho hoạt động kinh doanh. Một tỷ lệ quá cao sẽ khiến doanh nghiệp gặp khó khăn khi triển vọng kinh tế không thuận lợi. Khuyến nghị: Tỷ lệ không nên lớn hơn 1.2 lần. Tuy nhiên, con số này có thể khác nhau tùy vào ngành nghề. Cần so sánh với mức trung bình của ngành để có đánh giá hợp lý.
Tỷ lệ Tài sản ngắn hạn/Nợ ngắn hạn (Current Ratio):Tỷ lệ này cho biết doanh nghiệp có đủ tài sản ngắn hạn để đáp ứng các khoản nợ trong vòng 1 năm tới hay không. Nếu tỷ lệ này quá thấp, doanh nghiệp có thể gặp khó khăn trong việc thanh toán các nghĩa vụ ngắn hạn. Khuyến nghị: Tỷ lệ này không nên nhỏ hơn 1, nghĩa là doanh nghiệp cần có ít nhất 1 đồng tài sản ngắn hạn cho mỗi 1 đồng nợ ngắn hạn.
Tỷ lệ thanh toán nhanh (Quick Ratio): Để đánh giá khả năng thanh khoản nhanh của doanh nghiệp, nên sử dụng thêm tỷ lệ này, giúp loại bỏ yếu tố hàng tồn kho – một tài sản có thể không dễ dàng chuyển đổi thành tiền mặt. Khuyến nghị: Kinh nghiệm cá nhân tỷ lệ thanh toán nhanh không nên nhỏ hơn 0.6. Tuy nhiên, con số này có thể khác nhau tùy vào ngành nghề. Cần so sánh với mức trung bình của ngành để có đánh giá hợp lý.
Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh (Operating Cash Flow): Đây là yếu tố quan trọng phản ánh khả năng tạo ra tiền từ hoạt động kinh doanh chính của doanh nghiệp. Nếu dòng tiền âm trong nhiều năm, doanh nghiệp có thể phải dựa vào nợ vay hoặc nguồn tài trợ khác để duy trì hoạt động, làm tăng rủi ro. Khuyến nghị: Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh không nên âm trong nhiều năm liên tiếp; tốt nhất là luôn dương và ổn định.
Khả năng thanh toán lãi vay (Interest Coverage Ratio):
Chỉ số này đo lường khả năng của doanh nghiệp trong việc thanh toán lãi vay từ lợi nhuận hoạt động kinh doanh. Nó cung cấp một cái nhìn rõ ràng về khả năng trả nợ lãi của doanh nghiệp. Khuyến nghị: Tỷ lệ này không nên nhỏ hơn 2, tức là lợi nhuận hoạt động nên gấp ít nhất 2 lần chi phí lãi vay.
Tính thanh khoản của trái phiếu.
Khi cần tiền đột xuất thì nhà đầu tư thu tiền về như thế nào? Nhà đầu tư có 2 lựa chọn, bán trái phiếu cho nhà đầu tư khác (thị trường thứ cấp) hoặc bán lại cho đại lý phân phối.
Giao dịch trên thị trường thứ cấp: Các trái phiếu hiện này đều bắt buộc niêm yết trên sàn HNX. Do đó, về mặt lý thuyết thì bạn có thể bán trái phiếu trên sàn để lấy lại tiền mặt khi cần nhưng thực tế, thị trường trái phiếu hiện tại thanh khoản rất thấp, khi thực hiện theo cách này, nhà đầu tư cần xác định trước khả năng nắm giữ trái phiếu đến đáo hạn để tránh tình trạng phải bán lỗ khi cần tiền mặt gấp.
Bán lại trái phiếu cho đại lý phân phối: Đây là một cơ chế tương đối phổ biến, đặc biệt với các loại trái phiếu doanh nghiệp phát hành thông qua các tổ chức phân phối lớn như ngân hàng, công ty chứng khoán, hoặc quỹ đầu tư.
Ưu điểm là tính linh hoạt cao: Nếu cần tiền gấp, nhà đầu tư không cần tìm kiếm người mua trên thị trường mà có thể trực tiếp bán lại cho đại lý phân phối. Vì vậy nhà đầu tư có thể tham gia với các kỳ hạn ngắn, nắm giữ vài tháng thậm chí vài tuần. Nhược điểm là với các kỳ hạn dài, hoặc nắm giữ trái phiếu đến khi đáo hạn thì đại lý phân phối sẽ hưởng một chút lãi suất, nên lãi suất khi mua thông qua đại lý phân phối sẽ không cao bằng mua trực tiếp từ tổ chức phát hành hoặc qua thị trường thứ cấp.
Ở vấn đề thanh khoản này, lời khuyên là nhà đầu tư mới tiếp cận nên mua thông qua đại lý phân phối để được tư vấn cũng như bảo đảm tính thanh khoản, trước khi tự mua trực tiếp từ TCPH hoặc thị trường thứ cấp.
Trên đây là giới thiệu về cách phân tích trái phiếu của mình. Để minh họa thì mình sẽ sử dụng cách tiếp cận này để phân tích các trái phiếu của BCM và SBT trong thời gian tới.
Xem thêm các bài viết về trái phiếu của mình tại đây.